Chúa Nhật XXX Thường Niên (B)
Chủ đề :
Thiên Chúa giải phóng con người khỏi sự dữ cách triệt để và toàn diện
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử thế giới ghi nhận hai cuộc giải phóng vĩ đại nhất : giải phóng người nô lệ và giải phóng phụ nữ. Hai cuộc giải phóng đã đem lại quyền bình đẳng, tôn trọng nhân phẩm con người trong mối tương quan xã hội.
Chế độ nộ lệ tạo ra sự phân cực giữa chủ và tớ. Người nô lệ bị coi như một thứ đồ vật, người chủ mua về để làm việc, mọi sự đều do chủ định đoạt, ngay cả đến mạng sống cũng thuộc về chủ.
Người phụ nữ trong các chế độ xưa kia cũng không khá hơn. Cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông, tệ hơn, còn bị coi như một thứ đồ vật, một thứ đồ chơi của người đàn ông.
Khổng Tử, trong Đạo Đức Kinh, dạy : người phụ nữ tốt phải giữ luật tam tòng “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Tạ ơn Chúa vì lịch sử đã sang trang. Nhân loại biết ơn những vị anh hùng, đã làm cách mạng thành công, giải phóng người nô lệ, giới phụ nữ.
Ngày ngay, chế độ nô lệ chỉ còn được biết qua sử sách, nhân phẩm người phụ nữ được nâng cao, quyền bình đẳng nam/nữ đang được cải thiện cách triệt để và phổ quát.
Tuy nhiên, giải phóng về phương diện thể lý chưa phải là tất cả, nó mới chỉ đạt được một phần cho “hữu thể người” có linh hồn và thân xác.
Thiên Chúa, không chỉ được mạc khải là Đấng giải phóng Israel khỏi nhà tôi mọi Ai-cập, khỏi kiếp lưu đày bên Ba-bi-lon, nhưng còn giải phóng dân khỏi tội lỗi và sự chết. Đây mới thật là cuộc giải phóng triệt để, toàn diện muôn dân mong đợi, vì lẽ, hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội và phải chết.
Chỉ một mình Thiên Chúa giải phóng con người khỏi tội, ban ơn hòa giải, để họ được sống và sống dồi dào. Công trình giải phóng toàn diện này được thực hiện trong Chúa Giê-su, Đấng xóa bỏ tội lỗi trần gian, cho con người được hưởng tự do thần thiêng trong sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày dung mạo Giê-su, Đấng cứu thế muôn dân mong đợi, thực hiện công trình giải phóng bằng cuộc trao đổi kỳ diệu, diễn ra nơi chính mình. Giê-su chấp nhận nghèo, để chúng ta được giầu có mọi sự, chấp nhận thương tích để chúng ta được chữa lành, chấp nhận tù tội để chúng ta được giải phóng, được tự do, chấp nhận mang thân tội để chúng ta nên công chính, chấp nhận chịu chết để chúng ta được sống muôn đời.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, loan báo niềm vui ngày Thiên Chúa viếng thăm, giải thoát dân khỏi ách nộ lệ bên Ba-bi-lon, đưa về miền đất hứa, miền đất sung túc và tự do.
Đức Chúa sẽ chủ động làm tất cả để dân được sống trong an bình, hạnh phúc. Trên đường trở về, Chúa đi giữa dân, dẫn dắt từng người và số đông, không bỏ sót người nào, cho dẫu họ yếu đuối đủ loại : ốm đau, mù lòa, què quặt, mang thai, già lão...
Ngôn sứ còn loan báo : Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc trọng thể trên núi Sion để thiết đãi muôn dân. Thịt béo, rượu nồng, khăn tang sẽ vĩnh viễn được tháo cởi, giọt lệ vắn dài sẽ được Chúa lau khô và dân Ta hưởng an bình thư thái.
Đó là những lời an ủi, dẫy tràn yêu thương, Chúa dành cho dân ngay trong cảnh lưu đày và vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi họ trong suốt hành trình tới tận phần đất Chúa hứa cho Abraham.
Chúa giải phóng Israel khỏi cảnh lưu đày là có thật, là sự kiện lịch sử, nhưng còn nhắm tới một cuộc giải phóng thiêng liêng trổi vượt, hoàn hảo gấp bội : giải phóng dân khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Công cuộc giải phóng thứ hai cho phép con người hòa giải với Thiên Chúa, trở nên con rất yêu dấu của Người, nhất là được hưởng trọn vẹn tình yêu và sự sống muôn đời.
Tác giả thực hiện cuộc giải phóng thiêng liêng là Đức Kitô, được Cha sai đến làm Đấng cứu thế và chuộc tội.
Thánh Marco, trong bài Tin Mừng, tường thuật phép lạ Chúa chữa người mù thành Giê-ri-cô. Cuộc đối thoại cho thấy Giê-su lắng nghe lời kêu cứu của con người trong cơn hoạn nạn, nhất là những kẻ bé mọn kêu xin. Nghe tiếng Chúa, anh vùng dậy, vứt tấm áo choàng, chạy đến gặp Chúa. Anh có những hành động dứt khoát và quyết liệt, bất chấp sự cản ngăn của người khác. Anh đã gặp Chúa và lời thỉnh cầu đã được Chúa chấp nhận. Anh được chữa lành con mắt. Từ nay, anh có thể ngắm nhìn thiên nhiên, những kỳ công Chúa tác tạo mà lớn tiếng ngợi khen danh Chúa.
Anh được chữa lành bởi lòng thương xót Chúa và sự bền đỗ trong đức tin : “Đức tin của con đã cứu chữa con” (Mc 10, 52).
Qua câu chuyện chữa lành người mù thành Giê-ri-cô, chúng ta có sẵn sàng tuyên xưng Thiên Chúa cứu độ : “Lạy ông Giê-su, con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10, 48), có thành tâm bền đỗ trong đức tin, để khi Chúa đến vẫn thấy chúng ta đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ. Nếu chúng ta tin vững vàng, thì mọi sự sẽ trở thành có thể, vì đức tin của con sẽ cứu chữa con.
Tin trong lòng thì được nên công chính, tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, đề cao địa vị tư tế trổi vượt của Đức Kitô, Đấng tế lễ, không phải đền tội cho riêng mình, nhưng cho toàn dân. Nguồn gốc tư tế của Ngài do Thiên Chúa ấn định, nên viên mãn, trường tồn. Hy tế của Ngài luôn làm đẹp lòng Cha và sinh ơn cứu độ cho cả thế gian.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta :
· Một là : Thâm tín rằng Đức Kitô đã chết vì tội lỗi trần gian và Người đã sống lại để chúng ta được sống muôn đời. Đây chính là ơn giải phóng triệt để và phổ quát. Cố gắng sống như con cái tự do của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng niềm vui và ơn chúc lành của Trời.
· Hai là : kiên trì trong tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ, người môn đệ sẽ mau mắn nhận ra ý Chúa, rồi cố gắng đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen !