WHĐ (29/9/2024) - Sau khi gặp các giám mục, linh mục và những người sống đời thánh hiến tại Nhà thờ chính tòa Dili, Đức Giáo Hoàng (ĐGH) Phanxicô đã gặp 42 tu sĩ Dòng Tên từ đất nước này vào khoảng 11 giờ sáng ngày 10 tháng 9.
Sau lời chào mừng, Bề trên Miền Dòng, Cha Erik Jon Gerilla, đã gửi lời chào ngắn đến ĐGH và giới thiệu nhóm, được sắp xếp theo hình móng ngựa:
“Thay mặt cho tất cả những người hiện diện, cho phép con bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đức Thánh Cha, vì đã ân cần gặp chúng con hôm nay, các thành viên Dòng Tên Miền Dòng Timor. Cùng với chúng con có những nghiên cứu sinh đang được đào tạo ở nước ngoài, và chúng con cũng có một linh mục ở Roma. Chúng con tham gia vào mục vụ giáo dục, mục vụ linh hướng, mục vụ xã hội, mục vụ giáo xứ và đào tạo. Con đặc biệt muốn giới thiệu Cha João Felgueiras, nhà truyền giáo phục vụ lâu nhất từ Bồ Đào Nha, hiện đã 103 tuổi. Cá nhân ngài đã biết những nhà truyền giáo Dòng Tên đầu tiên và kết nối lịch sử cổ đại với hiện tại. Năm nay đánh dấu một ngày lịch sử đối với chúng con, anh em Dòng Tên ở Timor, khi chúng con kỷ niệm 125 năm sứ vụ của Dòng Tên. Mặc dù chúng con đã bị trục xuất khỏi Timor vào năm 1910, nhưng chúng con đã trở lại nhiều năm sau đó. Chiếc ghế mà ĐTC đang ngồi, được làm từ gỗ của nhà thờ cũ, do các tu sĩ Dòng Tên xây dựng vào năm 1905.”
Anh em thật siêng năng! Hãy đặt những câu hỏi ngay bây giờ đi...
Cuộc đối thoại tiếp tục bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha.
Kính chào buổi sáng ĐTC kính yêu. Trước hết, con cảm ơn Cha rất nhiều vì đã ở đây với chúng con. Con là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ignatio và là điều phối viên quốc gia cho Mạng lưới Cầu nguyện Toàn cầu của ĐTC. Với niềm vui, con muốn đặt ra một câu hỏi cho ĐTC: với phương châm của chuyến thăm Đông Timor của Cha, “rằng đức tin của anh em trở thành văn hóa của anh em”, Cha hy vọng gì cho người Công giáo và Giáo hội Công giáo ở Đông Timor, một đất nước có phần lớn người Công giáo ở lục địa Châu Á? Cuộc gặp gỡ giữa đức tin và văn hóa này diễn ra ở thời điểm nào, trong thời đại thực sự đầy thách thức này, trong bối cảnh đời sống của Giáo hội Timor? Cảm ơn Cha rất nhiều, thưa ĐTC.
Một điều cần phải rõ ràng trong việc rao giảng Tin Mừng: Phúc âm hóa văn hóa phải đi đôi với hội nhập Tin Mừng. Đức tin phải được đưa vào văn hóa. Một đức tin không tạo ra văn hóa là một đức tin chiêu dụ. Chúng ta không được quên lời Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã nói: Tin Mừng không được truyền bá bằng cách chiêu dụ, mà bằng cách hội nhập văn hóa. Việc Phúc âm hóa văn hóa và hội nhập văn hóa đức tin phải song hành với nhau, và chúng ta phải chú ý đến điều này. Hãy luôn nhớ đến phong cách truyền giáo của chúng ta tại Trung Quốc!
Thưa ĐTC, trước những thách thức toàn cầu mà Giáo hội đang phải đối mặt, những lĩnh vực chính mà các tu sĩ Dòng Tên ở Đông Timor nên ưu tiên trong sứ mạng tông đồ của mình là gì?
Thách thức của Giáo hội luôn luôn là không rời xa dân Chúa. Chúng ta cần tránh xa các ý thức hệ về Giáo hội. Đây là thách thức tôi đặt ra cho các anh em: đừng quay lưng lại với dân chúng vốn là gia sản quý giá nhất.
Con đã được thụ phong linh mục cách đây ba năm và con tạ ơn Chúa vì ơn gọi trở thành một tu sĩ Dòng Tên. Hiện tại, con đang phục vụ với tư cách là thủ quỹ Dòng Tên tại Timor. Con tự hào được tham gia vào Ban Thư ký Bác ái, đơn vị chuẩn bị cho chuyến thăm của Đức Thánh Cha. Đó là nguồn cảm hứng lớn lao và con đã rút ra được một bài học. Con muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành vì cơ hội quý giá và đặc ân này. Con có một câu hỏi về mối quan hệ giữa Giáo hội và Dòng Tên: theo Cha, mối quan hệ giữa Dòng và Giáo hội hoàn vũ là gì?
Đó luôn là mối quan hệ chiến tranh! [ĐGH nói điều đó với một nụ cười]. Cha vào tập viện năm 1958, vì vậy Cha đã trải qua tất cả những thay đổi của công đồng. Cha đã tham gia vào cuộc bầu cử Cha Kolvenbach, khi đã có một nhóm tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha cáo buộc Dòng phản bội Giáo hội. Vào thời điểm khủng hoảng đó trong Dòng Tên, điều rất quan trọng là phải có một Cha Tổng quyền có sức lôi cuốn. Và ở đó, Cha đã thấy những căng thẳng trong Giáo hội diễn ra. Bài phát biểu mà Thánh Phaolô VI đã đưa ra tại Tổng hội XXXII là một tác phẩm nghệ thuật. Bài phát biểu nói rõ ràng những gì Giáo hội muốn từ Dòng. Cha yêu cầu anh em đọc bài phát biểu đó: đó là một kiệt tác. Khi Cha trở thành Giáo hoàng, Cha đã hỏi liệu có bản thảo nào về bài phát biểu đó không; vì vậy, thủ thư đã đến Văn Khố mật và mang đến cho Cha. Ngài đã tự tay viết bài đó; đó là lý do tại sao Cha nói rằng đó là tự phát. Cha thấy bản thảo do chính tay ngài viết. Hãy đọc đi, đó là một bài phát biểu mạnh mẽ. Bài phát biểu này phác họa mối tương quan với Giáo hội, một mối tương quan tự do.
Sau đó, có những khoảnh khắc được diễn giải là xung đột, chẳng hạn như khi Thánh Gioan Phaolô II đến thăm Cha Arrupe, người đã bị bệnh. Cha Dezza được bổ nhiệm tạm thời cai quản Dòng vào thời điểm đó. Một số người chỉ ra ngài là người bảo thủ và sẽ có tác động tiêu cực. Nhưng thay vào đó, ngài là người tuyệt vời. Ngài đã giúp chúng ta hiểu cách điều hành Dòng trong cơn bão. Ở đây, anh đã phải làm hoa tiêu giữa một số cơn bão. Hãy học hỏi từ truyền thống này trong thời kỳ khó khăn của Dòng!
Đông Timor là một quốc gia rất Công giáo. Có nguy cơ giáo sĩ trị. Cha nghĩ gì về điều đó?
Anh đã chỉ đúng vào điểm nhạy cảm: giáo sĩ trị, hiện diện ở khắp nơi. Ví dụ, có một nền văn hóa giáo sĩ trị mạnh mẽ ở Vatican, mà chúng ta đang cố gắng thay đổi. Giáo sĩ trị là một trong những phương tiện tinh vi nhất mà ma quỷ sử dụng. Cha de Lubac, trong những trang cuối của cuốn sách Suy tư về Giáo hội, đã nói về “sự thế tục thiêng liêng”. Ngài nói rằng đó là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với Giáo hội, thậm chí còn tệ hơn thời các Giáo hoàng có thê thiếp. Chủ nghĩa giáo sĩ là hình thức thế tục cao nhất trong hàng giáo sĩ. Văn hóa giáo sĩ là văn hóa thế tục. Đó là lý do tại sao Thánh Ignatio nhấn mạnh rất nhiều vào việc xem xét sự thế tục, tinh thần của thế gian, bởi vì tội lỗi của chúng ta, đặc biệt là đối với những người ở vùng biên, sẽ nằm đó, trong những lĩnh vực này; trong sự thế tục về mặt trí tuệ, trong sự thế tục về mặt chính trị…
Cha được trợ giúp nhiều nhờ tấm gương của thánh Phêrô Faber, người mà cha rất yêu quý. Nhân tiện, họ đã “liệt kê” ngài là “chân phước”, một trong những người vĩ đại nhất mà Dòng từng có. Được bầu làm Giáo hoàng, Cha đã tuyên thánh cho ngài. Một người vĩ đại. Faber là một linh mục không theo kiểu giáo sĩ trị, ngài đi từ nơi này đến nơi khác để phục vụ Chúa. Theo Cha, đối với các anh em, đối với chúng ta, những linh mục, sự thế tục thiêng liêng là căn bệnh khó vượt qua nhất.
Cha đã tập hợp một cuốn sách về những chủ đề thỉnh thoảng Cha viết khi còn là Tổng Giám mục. Trong số những thứ khác, có một lá thư cha viết về chủ nghĩa giáo sĩ và tính thế tục. Thánh Ignatiô khiến chúng ta cầu xin ơn không có tinh thần thế gian. Nếu anh em có thời gian, hãy đọc điều đó; nó nằm trong một cuốn sách nhỏ có tên là: Santos no mundanos[1]. Chủ nghĩa giáo sĩ là căn bệnh tồi tệ nhất. Vì vậy, như anh nói, “Có chủ nghĩa giáo sĩ ở đây”, vì vậy chúng ta phải có trách nhiệm và dạy các linh mục trẻ một cách khác để sống chức thánh của họ. Chủ nghĩa giáo sĩ là một nền văn hóa phá hủy Giáo hội. Do đó, cần phải chống lại nó. Cách để chống lại nó là trở thành mục tử của mọi người. Nhưng anh em có thể nói với Cha, “Con làm việc trong trường đại học, giữa những người trí thức." Vâng, những người trí thức mà anh em có ở trường đại học là những con người. Hãy là người mục tử của mọi người! Một điều cuối cùng để tránh chủ nghĩa giáo sĩ. Cha mượn lời của Thánh Phaolô nói với Timôthê, "Hãy nhớ đến mẹ và bà của anh." Khi anh trở nên kiêu ngạo, hãy nghĩ đến mẹ và bà của anh! Đức tin mà họ trao cho anh em không phải là chủ nghĩa giáo sĩ, mà là thứ gì đó khác…
Thưa ĐTC, trong 11 năm làm Giáo hoàng đầu tiên của Dòng Tên, đâu là những quyết định quan trọng nhất và những thách thức khó khăn nhất đối với Giáo hội Công giáo toàn cầu?
Những gì anh em có thể gọi là chương trình cho triều đại giáo hoàng của Cha nằm trong Tông huấn Evangelii Gaudium. Anh em có thể tìm thấy ở đó. Cha muốn nhắc anh em điều gì đó về việc rao giảng. Đối với Cha, điều rất quan trọng là tìm những nhà giảng thuyết gần gũi với mọi người và với Thiên Chúa. Cha thích những linh mục giảng trong 8 phút và nói mọi thứ. Và sau đó là lòng thương xót: luôn tha thứ! Nếu ai đó xin tha thứ, hãy tha thứ. Cha thú nhận rằng trong 53 năm làm linh mục, Cha chưa bao giờ từ chối ban bí tích hòa giải. Ngay cả khi nó đầy đủ. Cha nghe một hồng y nói rằng khi ngài ở trong tòa giải tội và mọi người bắt đầu kể cho ngài nghe những tội lỗi nghiêm trọng nhất trong khi lắp bắp vì xấu hổ, ngài luôn nói, "Cứ tiếp tục, cứ tiếp tục, tôi đã hiểu rồi", ngay cả khi Cha chưa hiểu bất cứ điều gì. Chúa hiểu mọi thứ. Làm ơn, chúng ta đừng biến tòa giải tội thành phòng tư vấn tâm lý; đừng biến nó thành tòa án. Nếu có câu hỏi nào cần hỏi, và tôi hy vọng là ít câu hỏi, thì câu hỏi sẽ được hỏi và sau đó đọc lời xá tội. Một Cha giải tội ở Buenos Aires, một tu sĩ dòng Capuchin mà cha đã phong hồng y và hiện đã 96 tuổi, đã giải tội suốt ngày. Có lần ngài đến gặp cha và nói, “Con có một sự do dự, vì con luôn tha thứ, con tha thứ mọi sự”. “Và Cha làm gì khi Cha có sự do dự này?”, Cha hỏi ngài. “Con đến với Chúa và nói với Ngài, ‘Hãy tỉnh táo lại! Vì Ngài đã nêu gương xấu cho con!’”
Cha có lời khuyên cụ thể nào cho công việc của chúng con ở Đông Timor liên quan đến công bằng xã hội không?
Công bằng xã hội phải tính đến ba ngôn ngữ của con người: ngôn ngữ của lý trí, ngôn ngữ của trái tim và ngôn ngữ của đôi tay. Là một trí thức tách biệt khỏi thực tế thì không có ích gì trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội; trái tim không có trí tuệ thì cũng chẳng có ích gì; và ngôn ngữ của đôi tay mà không có trái tim và trí tuệ thì cũng chẳng có ích gì.
Cách cha Arrupe nói với các tu sĩ Dòng Tên Mỹ Latinh về mối nguy hiểm của hệ tư tưởng pha trộn với công bằng xã hội rất quan trọng. Cha Arrupe đã để lại cho chúng ta một lá thư mục vụ rất phong phú về công bằng xã hội. Và Thánh Gioan Phaolô II cũng đã gửi cho chúng ta một lá thư khác.
Đây là đặc điểm của các tu sĩ Dòng Tên. Ví dụ, khi họ tiếp cận các cộng đồng bản địa, họ bắt đầu bằng công việc, văn hóa và âm nhạc. Họ cũng giúp đỡ những nô lệ da đen trốn thoát khỏi chế độ nô lệ trong các "Khu quản thúc" được gọi là quilombos. Nói cách khác, các tu sĩ Dòng Tên cũng giúp đỡ những người bị coi là tội phạm xã hội theo quan điểm hẹp hòi của thời đại vì đã trốn thoát khỏi chế độ nô lệ. Lịch sử của Dòng đầy rẫy những ví dụ về công bằng xã hội. Không ai trong số những người vĩ đại này là “người cộng sản”. Không, họ là tu sĩ Dòng Tên, và họ đã tiếp thu chiều kích xã hội của Tin Mừng.
Vào ngày phán xét, không ai trong chúng ta sẽ bị hỏi, “Con đã cư xử thế nào? Con có đi lễ mỗi Chúa Nhật không? Con có tham dự các cuộc họp không? Con có vâng lời Giám tỉnh không?” Tất nhiên, cha không bảo anh em là không vâng lời, nhưng Chúa sẽ không hỏi chúng ta điều này. Thay vào đó, Ngài sẽ hỏi chúng ta, “Ta đói, các ngươi có cho ta ăn không? Ta khát, các ngươi có cho ta uống không? Ta ở trong tù, các ngươi có thăm viếng ta không? Ta là kẻ chạy trốn, các ngươi có giúp ta không?” Đó là điều chúng ta sẽ bị phán xét. Và đây là điều Chúa phán. Vì vậy, công bằng xã hội là một phần thiết yếu và không thể thiếu của Tin Mừng.
Thật đáng mừng khi thấy khao khát công bằng xã hội trong suốt chiều dài lịch sử đã đơm hoa kết trái, tùy thuộc vào thời điểm, con người và địa điểm, như Thánh Ignatio đã nói. Khi Thánh Ignatio yêu cầu chúng ta sáng tạo, ngài bảo chúng ta: hãy nhìn vào địa điểm, thời điểm và con người. Các quy tắc và Hiến pháp rất quan trọng, nhưng hãy luôn xem xét địa điểm, thời điểm và con người. Đó là một thách thức đối với sự sáng tạo và công bằng xã hội. Đây là cách công bằng xã hội nên được thiết lập, không phải bằng các lý thuyết xã hội. Tin Mừng có tiếng nói riêng của mình.
Làm sao chúng ta có thể lôi kéo giáo dân vào sứ mạng của mình, theo ơn gọi của họ hướng đến một Giáo hội bao gồm và tham gia hơn?
Đối với sứ mệnh hội nhập văn hóa, Dòng cần giáo dân, và Cha thích những gì Nhà Dòng đang thực hiện ở nhiều nơi khác nhau. Vài tháng trước, hiệu trưởng của một trường đại học Dòng Tên đã đến gặp Cha. Trường đại học có một đội ngũ giáo sư giáo dân, rõ ràng là cả nam và nữ. Cha hỏi bà, “Còn các tu sĩ Dòng Tên làm gì?” Bà trả lời, “Những gì họ phải làm: đồng hành mục vụ và định hướng các tiêu chí cho chúng con”. Khi biết rằng giáo dân có thể đảm nhiệm một vai trò nào đó, tu sĩ Dòng Tên sẽ để họ đảm nhiệm. Cha nhấn mạnh rất nhiều về tầm quan trọng của việc dành chỗ cho giáo dân, có lẽ vì Cha đã quen làm như vậy. Khi Cha còn là Giám tỉnh, chúng ta có ba trường đại học Công giáo, hai trong số đó đang nợ rất nhiều. Với một trong số đó, Universidad del Salvador ở Buenos Aires, chúng ta đã bắt đầu quá trình bàn giao cho giáo dân, những người đã điều hành trường trong 25 năm và mọi thứ đã tiến triển rất tốt, thậm chí còn tốt hơn trước. Dòng Tên giúp đỡ công tác mục vụ. Trường đại học khác ở Salta do Dòng Tên Wisconsin điều hành đã được Tổng Giáo phận tiếp quản và hoạt động rất tốt. Chỉ còn lại một trường, nơi hầu hết các vị trí hàng đầu đều do giáo dân nắm giữ và Dòng Tên đảm nhiệm công tác mục vụ. Đây là trường đại học do Dòng Tên thành lập. Cha đã phải thực hiện ba thay đổi này: giao một trường cho giáo dân, một trường cho Tổng Giáo phận và giữ lại trường thứ ba để có thể quản lý tốt. Đây là kinh nghiệm của Cha. Đừng quên rằng điều quan trọng là chăm sóc mục vụ, cả chăm sóc mục vụ tri thức, vốn là nền tảng, và chăm sóc mục vụ liên quan đến việc gần gũi với những người trẻ tuổi. Ví dụ, Cha có người thân đang học tại một trường đại học ở Washington, tức là Georgetown. Dòng Tên đã tổ chức một hệ thống tốt và sinh viên có sự đào tạo tốt về thiêng liêng, tri thức và cộng đồng. Đối với câu hỏi “Trường đại học ngày nay có phải là một tông đồ xã hội không?”, câu trả lời của Cha là “Tất nhiên rồi!” Tất nhiên là để chuẩn bị cho những nhà lãnh đạo đại học tiếp theo.
Cảm ơn Cha đã là mục tử của Giáo hội với phong cách biết cách thể hiện sức mạnh của Tin Mừng Chúa Giêsu trong việc đối đầu với chủ nghĩa duy vật và thế tục hóa. Cha đã xây dựng chương trình quản lý của mình như thế nào? Chúng con, những người Dòng Tên, muốn nhận được lời khuyên của cha khi đối mặt với những thách thức của ơn gọi. Cha khuyên chúng con nên làm gì?
Cha được bầu làm Giáo hoàng, mà không hề tưởng tượng rằng mình có thể làm được. Nhưng sau khi được bầu, Cha đã nghĩ về chương trình mà mình nên tuân theo. Những gì các vị Hồng y đã nói trong các cuộc họp trước Mật nghị là những gì cha cảm thấy mình phải nâng cao và biến nó thành một chương trình. Bởi vì khi một người chỉ làm một việc gì đó bằng nguồn lực của riêng mình, thì nó không có kết quả, không có ích. Mỗi người chúng ta phải thực hiện những gì mình được giao phó, nhưng với sự độc đáo của địa điểm, thời điểm và con người. Tất nhiên, Cha đến từ Châu Mỹ Latinh và, ví dụ, một người Đức có thể không hiểu Cha ngay, vì người đó và Cha có nền văn hóa khác nhau. Tiêu chí luôn là: đảm nhận sứ mạng vì nó đã được giao cho mình. Khi được bầu làm Giáo hoàng, đương sự sẽ được hỏi liệu ngài có chấp nhận vai trò đó hay không. Nhưng một khi đã chấp nhận, ngài không còn lựa chọn nào khác: hoặc là người đó tiếp tục với các tiêu chí trừu tượng, cá nhân của mình, hoặc là tiếp tục với những gì Giáo hội yêu cầu. Đó là cách Cha phát triển chương trình của mình.
Câu chuyện về ĐGH Clement XIV hiện lên trong tâm trí. Cha rất tiếc cho cuộc đời ngài. Thông qua các cuộc điều động của chế độ quân chủ Tây Ban Nha, ngài đã được bầu làm Giáo hoàng. Ngài là một người tốt, nhưng ngây thơ. Ngài có một thư ký tên là Bontempi, một kẻ mưu mô. Với sự đồng lõa của đại sứ Tây Ban Nha, ông đã sắp xếp để giải tán Dòng Tên. Đức Ganganelli là một vị Giáo hoàng yếu kém trong việc điều hành, bị một kẻ thư ký vô lại lèo lái. Một tu sĩ Dòng Tên phải mạnh mẽ trong những gì mình làm, mạnh mẽ ngay cả trong sự vâng lời, và không được để bất kỳ ai ‘điều khiển’. Người đó lắng nghe lời khuyên, đúng vậy, nhưng cuối cùng tự quyết định một cách sáng suốt. Khi ĐGH Clement XIV qua đời, Bontempi, một tu sĩ Dòng Đan viện, đã trốn trong đại sứ quán Tây Ban Nha. Khi cơn bão đi qua, ông đã trình diện với Bề trên Tổng quyền của mình ba sắc lệnh của Giáo hoàng: một sắc lệnh cho phép ông quản lý tiền bạc, một sắc lệnh khác cho phép ông sống bên ngoài tu viện, và sắc lệnh thứ ba, nếu Cha nhớ không nhầm, cho phép ông đi bất cứ đâu. Bề trên của ngài, một người của Chúa, đã nói với ông, “Anh thiếu sắc lệnh thứ tư!” “Sắc lệnh nào?” Bontempi hỏi, lưu ý rằng, “Chỉ có ba sắc lệnh!” “Sắc lệnh đảm bảo cho linh hồn anh được ơn cứu độ”, câu trả lời vang lên. Cha khuyên anh em nên đọc bản tường trình của tác giả Pastor về việc giải thể Dòng[2]. Ông kể rất hay trong Lịch sử các Giáo hoàng. Mọi tu sĩ Dòng Tên đều nên biết những câu chuyện mà Dòng từng bị đe dọa triệt hạ[3].
Vào cuối buổi họp, các tu sĩ Dòng Tên có mặt đã tặng ĐGH một số món quà, sau đó là hai gói nhựa trong suốt bên trong đựng những tấm thiệp có lời cầu nguyện mà nhiều người đã trao phó cho Đức Phanxicô. Ngài đã nhận, đặt tay lên đó cầu nguyện và ban phép lành. Buổi họp kết thúc bằng việc cùng nhau đọc Kinh Kính Mừng và chụp ảnh theo thông lệ. Khi chào từng tu sĩ Dòng Tên, ngài tặng họ một tràng hạt.
(Còn tiếp)
Đình Chẩn chuyển ngữ
Nguồn: laciviltacattolica.com; truy cập ngày 26/09/2024
Hình: Vatican News
Đọc thêm phần I: Đức Giáo Hoàng Phanxicô trò chuyện với các tu sĩ Dòng Tên tại Indonesia
[1] J. M. Bergoglio, Santi, non mondani. La grazia di Dio ci salva dalla corruzione interiore, Vatican City, Libreria Editrice Vaticana, 2023.
[2] Ludwig von Pastor (1854-1928) là một nhà sử học và nhà ngoại giao người Đức, một người Áo nhập tịch. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là History of the Popes from the End of the Medieval Age, được xuất bản thành 16 tập.
[3] Cf. J. M. Bergoglio, Lettere della tribolazione, Milan, Àncora, 2019, 12.